[ ]
1. Cách Lòng Tin Hình Thành
Ngày càng khó để chúng ta tiếp tục nhạy cảm, tin người và mở lòng với cuộc sống trong thời đại của sự bất ổn, biến động toàn cầu, ly hôn và đời sống gia đình rối loạn này. May thay, nhiều người vẫn có những người bạn và gia đình mà ta có thể dựa vào, hoặc người bạn đời mà ta có thể tìm đến như một nơi trú ẩn an toàn, nơi mà ta có thể cởi bỏ “áo giáp”, thư giãn và là chính mình. Nhưng đôi khi, ngay cả ở đó thì tình hình cũng trở nên khó khăn.
Khi áp lực hàng ngày xâm nhập vào không gian được bảo vệ của ta, hoặc một rắc rối bất ngờ trong mối quan hệ phá vỡ sự điềm tĩnh của ta, có thể ta sẽ bắt đầu cảm thấy bất an và nghi ngờ bản thân. Ta cũng có thể bắt đầu ngờ vực tình yêu, lòng chung thủy và sự đáng tin của người yêu/bạn đời. Ta có thể sẽ phản ứng với những nghi ngờ đó bằng cách vô tình có những hành vi né tránh họ một cách tế nhị.
Tại sao lòng tin lại dựa trên những nền tảng không vững chắc như vậy? Mặt khác, chẳng phải sẽ rất nguy hiểm nếu ta quá ngây thơ và dễ tin người hay sao? Ngày nay các cặp đôi gặp phải những vấn đề lòng tin nào mà cách đây 10 năm nó gần như không tồn tại? Cách nào tốt nhất giúp ta đối phó với những sự việc hoặc hoàn cảnh đe dọa hủy hoại lòng tin và sự tự tin của ta?
Lòng tin là gì?
Từ điển Oxford định nghĩa lòng tin là “một niềm tin vững chắc vào độ tin cậy, sự thật, năng lực hoặc sức mạnh của một người hay một điều gì đó.” Ví dụ, ta tin tưởng những người tốt bụng với mình, những người chính trực và hành động đúng với lời nói của họ. Ta tin tưởng người mà mình có thể trông mong rằng họ sẽ luôn làm điều “đúng.” Trong một mối quan hệ thân mật, ta sẽ tin người yêu/bạn đời nếu họ dễ đoán, đáng tin cậy và chân thật.
Những vấn đề lòng tin có đang tăng lên?
Gần đây một số nhà tâm lý học báo cáo rằng trong 10 năm qua, những vấn đề lòng tin ở các cặp đôi tìm đến tư vấn đã tăng cao chưa từng thấy. Theo lời Joe Bavonese, thuộc Viện Quan hệ ở Royal Oak, Michigan, một phần của sự gia tăng này là do những tiến bộ công nghệ gần đây khiến cho những cặp đôi dễ dàng lừa dối nhau hơn, chẳng hạn như giấu tin nhắn, danh sách cuộc gọi, tin nhắn từ bạn bè trên Facebook và email.
Ngày nay, hàng trăm bài blog, bài viết và mục tư vấn đưa ra những lời khuyên nhằm giúp các cặp đôi giải quyết vấn đề rắc rối về lòng tin. Nhiều bảng câu hỏi có sẵn để đo lường lòng tin trong mối quan hệ (lòng tin vào đối tượng mà mình đang yêu thương) cũng như niềm tin toàn cầu (niềm tin vào bản chất con người). Rõ ràng, vấn đề lòng tin rất quan trọng đối với nhiều người, nhất là những người đang cố gắng có được một mối quan hệ đầy yêu thương và viên mãn.
Ban đầu chúng ta hình thành lòng tin như thế nào?
Trẻ em học cách tin như thế nào là một câu hỏi căn bản được giải đáp bởi các nhà tâm lý học phát triển lỗi lạc của thế kỷ 20, đáng chú ý nhất là Erik Erikson, John Bowlby và D.W. Winnicott. Mỗi người đều viết rất nhiều về niềm tin và vai trò chủ yếu của nó trong sự trưởng thành và phát triển liên tục của trẻ em.
Erikson nói rằng trẻ sơ sinh hình thành niềm tin cơ bản khi trẻ giải quyết thành công cơn khủng hoảng tâm lý (hoặc cơ hội) đầu tiên trong đời; đó là mâu thuẫn giữa Tin và Không tin. Khi một em bé được người lớn nuôi dạy và luôn được người này cố gắng đáp ứng nhu cầu, bé sẽ hình thành niềm tin ở cuối năm 1 tuổi. Erikson khẳng định rằng nhân tố then chốt ở giai đoạn phát triển này chính là tỷ lệ giữa tin và không tin.
Mức độ tin tưởng cao hơn ở trẻ em có liên quan mật thiết đến các kiểu gắn bó an toàn. Các bé mới biết đi mà tin tưởng vào môi trường xung quanh thường là những bé đã hình thành sự gắn bó an toàn với cha mẹ hoặc người chăm sóc. Trên thực tế, nhà lý luận về sự quyến luyến John Bowlby kết luận rằng niềm tin cơ bản, như Erikson định nghĩa, là hoàn toàn cần thiết cho sự phát triển tâm lý khỏe mạnh của cá nhân trong suốt quãng đời của họ. Ông mô tả những kiểu gắn bó an toàn và không an toàn được Mary Ainsworth xác định ở các em bé 1 tuổi như là những dấu hiệu mạnh mẽ thể hiện mức độ tin tưởng của các em. Theo Bowlby, “Giới hạn của an toàn-không an toàn… có vẻ cũng nói đến đặc trưng ở giai đoạn sơ sinh mà Erikson gọi là ‘niềm tin cơ bản.’ Vì vậy nó quyết định một khía cạnh của tính cách có liên quan trực tiếp đến sức khỏe tâm thần.”
Nhà phân tâm học/bác sĩ nhi khoa D. W. Winnicott tin rằng việc trẻ dự đoán được cha mẹ sẽ làm gì là rất quan trọng để xây dựng lòng tin của trẻ. Trong cuốn sách của mình, Talking to Parents, ông viết, “Cha mẹ, đặc biệt là người mẹ ở những năm đầu, sẽ rất vất vả trong việc bảo vệ con khỏi những yếu tố bất ngờ.” Theo Robert Firestone, những bậc cha mẹ như vậy “có tính cách ấm áp, tình cảm, nhạy cảm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái và cũng cho trẻ sự kiểm soát, định hướng và hướng dẫn.”
Trải nghiệm ấu thơ góp phần gây ra những vấn đề về lòng tin
Có vô số trải nghiệm khó chịu thời thơ ấu góp phần gây ra sự không tin tưởng và thiếu tự tin ở trẻ em. Ví dụ, những câu trả lời không nhất quán của cha mẹ hay việc họ không thể đưa ra lời hứa sẽ khiến trẻ bất an và mất lòng tin. Cơn giận dữ đáng sợ của cha (hoặc mẹ) có thể phá vỡ niềm tin của đứa trẻ về một thế giới có thể dự đoán được. Sự phản bội lòng tin xảy ra cùng với việc bị lạm dụng tình dục hay những lần bị bạo hành nghiêm trọng trong thời gian dài có thể kích thích trạng thái tách biệt ở các nạn nhân trẻ tuổi. Những sự việc này cũng có thể khiến trẻ tin rằng mình sẽ bị phản bội trong tương lai, hoặc dẫn đến một số điểm mù nhất định trong khả năng trẻ đánh giá chính xác mức độ đáng tin cậy ở người khác.
Những cách giao tiếp không thành thật mà nhiều bậc phụ huynh sử dụng với nhau và với con cái cũng làm tổn hại đến lòng tin của trẻ. Người cha người mẹ thiếu chính trực có khuynh hướng dối trá trong quá trình giao tiếp (hành động của họ không tương ứng với lời nói). Thông điệp “nước đôi” của họ khiến con trẻ hoang mang và phá hỏng ý thức của trẻ về hiện thực. Gregory Bateson đã tập trung vào động lực quan trọng này – sự “tiến thoái lưỡng nan” – trong cuốn sách Steps Toward an Ecology of Mind của mình. Dựa trên nghiên cứu lâm sàng, ông kết luận rằng trẻ em học cách không tin vào nhận thức của mình trong các tương tác xã hội khi trẻ hoang mang và bối rối bởi những thông điệp “nước đôi” mà mình từng trải nghiệm trong gia đình.
Những sự kiện đau thương này trong thời thơ ấu để lại vết sẹo vô hình và có tác động sâu sắc đến ta trong suốt cuộc đời. Trong nỗ lực bảo vệ chính mình, chúng ta xây dựng một hệ thống phòng vệ chống lại nỗi đau, sự hỗn loạn và sự vỡ mộng. Một số người thề không bao giờ tin tưởng bất kì ai nữa; những người khác trở nên thận trọng thái quá và quyết tâm không trở thành “kẻ khù khờ.” Nếu bị sự không trung thực của cha mẹ làm tổn thương, ta có thể nhìn người khác từ một quan điểm sai lệch và hình thành thái độ hà khắc, cay độc đối với họ. Hành động tự phòng thủ này giúp ta duy trì ảo tưởng về sức mạnh và sự kiên cường, nhưng cũng chính nó sẽ hạn chế khả năng ta tin tưởng người khác và tìm kiếm sự viên mãn trong một mối quan hệ gần gũi.
2. Vấn Đề Lòng Tin Trong Mối Quan Hệ
Trong một mối quan hệ thân mật, lòng tin là yếu tố quan trọng nhất. Chuyên gia về mối quan hệ Shirley Glass chỉ ra rằng, “Mối quan hệ thân mật phụ thuộc vào sự thành thật và cởi mở. Nó được xây dựng và duy trì thông qua niềm tin rằng ta có thể tin vào những gì người khác nói với ta.” Trong thực tế, lòng tin có thể được xem như chất keo gắn kết mối quan hệ vì nó tạo điều kiện cho sự gắn kết cảm xúc tích cực giữa những người yêu nhau dựa trên tình cảm, tình yêu và lòng chung thủy. Sự tin tưởng lẫn nhau ở các cặp đôi hạnh phúc được chất oxytocin củng cố; oxytocin là chất hóa học thần kinh trong não giúp tiến hành gắn kết trẻ sơ sinh với mẹ của bé. Hoạt động âu yếm, trìu mến giữa những người yêu nhau cũng giúp tiết ra oxytocin mà theo một số nhà khoa học thì nó “giúp người ta tin tưởng nhưng không mù quáng.”
Ngược lại, sự không tin tưởng có thể phá vỡ ngay cả những mối quan hệ thắm thiết nhất. Rất nhiều tình huống xảy ra trong một mối quan hệ có thể gây ra thái độ nghi ngờ ở một hoặc cả hai người. Hầu hết mọi người phản ứng với sự lừa dối của đối phương giống như cách họ phản ứng với những lời nói dối, sự không trung thực và thông điệp “nước đôi” của cha mẹ.
Thông điệp “nước đôi” và vấn đề lòng tin
Thông điệp “nước đôi” tạo ra sự hoang mang và xa cách ở các cặp đôi thông qua việc phá vỡ cảm giác tin tưởng lẫn nhau. Một số người bắt đầu nghi ngờ đối phương gần như ngay sau khi quen nhau vì trong thâm tâm, họ sợ sự thân mật và gần gũi. Những người khác có thể phản ứng lại dấu hiệu ban đầu của sự phản bội hoặc không đáng tin ở nửa kia. Ví dụ, một cô gái trẻ nghĩ rằng người yêu mới dành ít thời gian với cô hơn lúc trước. Khi cô đề cập đến điều này, anh nhấn mạnh rằng anh yêu cô nhiều hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, lời nói của anh không trấn an được cô, bởi vì hành động của anh không “khớp” với những phát biểu có vẻ rất quan tâm này. Trong những trường hợp này, quan trọng là ta nên căn cứ vào hành động hơn là chỉ dựa vào những gì đối phương nói.
Sự lừa dối, ngoại tình, hành vi tự hủy hoại bản thân và các vấn đề lòng tin
Phản ứng của con người đối với sự không trung thực của nửa kia chủ yếu dựa trên kinh nghiệm quá khứ của họ với cha mẹ, những người có thể đã phản bội lòng tin của họ. Khi thảo luận về hậu quả của một cuộc ngoại tình, Shirley Glass nhấn mạnh rằng “Những người không hình thành niềm tin cơ bản trong suốt thời thơ ấu đặc biệt dễ bị người thân yêu lừa dối. Ngoại tình gợi lại tất cả những vết thương thuở ấu thơ của một người từng bị người khác lừa dối.”
Phản bội lòng tin có thể gây hại cho mối quan hệ nhiều hơn là bản thân cuộc ngoại tình. Sự lừa dối phá vỡ hiện thực của những người khác, hủy hoại niềm tin vào tính xác thực trong nhận thức và kinh nghiệm chủ quan của họ. Theo Robert Firestone, “Sự phản bội lòng tin đến từ việc người yêu/bạn đời bí mật qua lại với người khác khiến cho người bị lừa dối sửng sốt và đau đớn nhận ra rằng người mà họ đã gắn bó lại có một cuộc sống bí mật và rằng có một khía cạnh ở người đó mà họ không hề hay biết.” Tương tự như vậy, trong Living and Loving After Betrayal, Steven Stosny tuyên bố rằng, “Cũng như sự tổn hại mà vết đạn bắn đe dọa đến sức khỏe nói chung của cơ thể, sự phản bội tình cảm ‘xuyên thủng’ lòng tin và tình yêu và ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu về cuộc sống của mình nói chung.”
Lòng tin cũng có thể bị phá hủy vì sự thờ ơ, chỉ trích, khinh thường và các hành vi cự tuyệt trực tiếp lẫn gián tiếp của một trong hai người. Việc người mà ta yêu thương giữ bí mật hay lừa dối ta về việc lạm dụng rượu hoặc ma túy có thể phá hủy niềm tin của ta. Sự dối trá về tiền bạc, tài chính gia đình, hoặc những ý đồ khác có thể phá hủy lòng tin của ta đối với bạn đời.
Tiếng nói chỉ trích nội tâm “nuôi dưỡng” các vấn đề lòng tin trong mối quan hệ như thế nào
Thái độ hoài nghi bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tiếng nói chỉ trích trong thâm tâm. Quá trình suy nghĩ tiêu cực này là một phần của hệ thống phòng vệ mà ta xây dựng khi còn là trẻ con; nó liên quan đến cuộc đối thoại nội tâm chống lại lợi ích tốt nhất của ta và thể hiện sự cay độc đối với người khác. Nó là thủ phạm gây ra các vấn đề về lòng tin trong những mối quan hệ gần gũi nhất của con người.
Nếu ta nghi ngờ chính mình, xem bản thân là không xứng đáng hoặc cảm thấy tiêu cực đối với người khác, ta sẽ không thể tìm kiếm tình yêu và sự hài lòng trong mối quan hệ. Khi tìm thấy một ai đó thực sự chấp nhận và yêu thương mình, ta có thể bắt đầu cảm thấy lo lắng vì cái nhìn tích cực của họ về ta mâu thuẫn với nhận thức tiêu cực về bản thân của ta. Đến lúc này, sự nghi ngờ bản thân có thể áp đảo tư duy hợp lý. Những tiếng nói chỉ trích nội tâm trở nên mạnh mẽ hơn, nói với ta rằng ta không xứng đáng có được tình yêu; nó cũng có thể tập trung vào và phóng đại bất kì sai sót nào ở người yêu thương ta, rồi ta bắt đầu kén cá chọn canh và chê bai họ.
Định kiến về giới và thái độ phân biệt giới tính đại diện cho một phần mở rộng của tiếng nói chỉ trích nội tâm trong khuôn khổ văn hóa. Nó tập trung vào những đặc điểm tiêu cực nhất định mà được cho là “đặc trưng” của nam giới hoặc nữ giới và thúc đẩy sự không tin tưởng và chỉ trích cay độc giữa hai giới. Những quan điểm méo mó như “Đàn ông thật vô cảm. Họ không quan tâm đến cảm xúc, đến phụ nữ hoặc trẻ con” và “Phụ nữ thật trẻ con và quá tình cảm, họ không hiểu những vấn đề thực tiễn” là những ví dụ về lối tư duy này.
Trớ trêu thay, ta có thể thấy một vài tiếng nói nội tâm là thân thiện và có ích. Những tiếng nói này cảnh báo ta về những nguy hiểm khi ta để mình yếu đuối, mở lòng hoặc cả tin, đôi lúc ngay khi ta vừa bắt đầu một mối quan hệ mới, “Đừng quá vội mừng. Đừng gắn bó quá sâu, mi sẽ chỉ bị tổn thương hoặc bị từ chối mà thôi.”
Nhiều người cảm nhận tiếng nói này như kiểu “huấn luyện viên” nội tâm thường cho lời khuyên tồi về cách ứng xử trong một mối quan hệ. “Hãy nhớ rằng, bạn phải cố gắng thể hiện mình một cách tốt nhất. Sai một li, đi một dặm và cuối cùng bạn sẽ chỉ còn lại một mình.” Hoặc là nghi ngờ sự tận tâm hay tình yêu của nửa kia, “Tại sao anh ấy (cô ấy) không trìu mến hơn?”, “Tại sao anh ấy (cô ấy) luôn luôn ở cùng với bạn bè?”, “Anh ấy (cô ấy) không thực sự quan tâm đến cậu đâu.” Những suy nghĩ tiêu cực khác sẽ củng cố cho bất kì sự ngờ vực bản thân nào mà ta vốn đeo mang sẵn, “Không có gì lạ khi anh ấy (cô ấy) cho mình leo cây. Anh ấy (cô ấy) đã hối hận vì hẹn hò với mình rồi.” “Một khi anh ấy (cô ấy) biết về mình, anh ấy (cô ấy) sẽ phát hiện ra bản chất con người mình.”
Một số những tiếng nói xấu xa nhất là tiếng nói “công kích” ta với những suy nghĩ khiến ta lo âu dự về sự từ chối và mất mát, nhất là trong những tình huống có xuất hiện “tình địch”, ví dụ, “Hãy cẩn thận! Mình sẽ mất anh ấy (cô ấy) cho xem. Anh ấy (cô ấy) đang làm gì? Đang đi đâu? Mình nên tìm hiểu đi. Sẽ ra sao nếu anh ấy (cô ấy) gặp gỡ người khác tại nơi làm việc, tại bữa tiệc đó? Mình không thể cạnh tranh với anh chàng/cô nàng ấy đâu. Mình sẽ không thể chịu đựng được điều đó! Mình sẽ không bao giờ có thể gặp được ai khác. Đời mình thế là xong.”
3. Xây Dựng Lại Niềm Tin
Để xây dựng lại niềm tin sau khi bị phản bội, những người yêu nhau cần phải xác định những tiếng nói chỉ trích nội tâm vẫn đang tiếp tục “đổ thêm dầu vào lửa”, khiến họ mắc kẹt trong quá khứ. Nếu sự không chung thủy khiến lòng tin rạn nứt, họ cũng cần một cuộc đối thoại lâu dài về những gì mà mỗi người mong muốn; dù là để hàn gắn lại mối quan hệ hay để “đường ai nấy đi.” Một nguồn thông tin có ích vào lúc này, cuốn sách Not Just Friends, của Shirley Glass, cung cấp những gợi ý có giá trị giúp “Chữa lành vết thương sau khi bị phản bội” như tựa phụ của sách cho biết. Tiến sĩ Glass nhấn mạnh rằng “Bạn không thể giành được lòng tin bằng những lời thề thủy chung… Liều thuốc giải (đối với việc giữ bí mật, sự lừa dối và những cái cớ cho việc vụng trộm)… là sự cởi mở, trách nhiệm giải thích và sự thành thật.” Bà cũng khuyên rằng,
“Điều giúp ta có thể tha thứ cho đối phương chính là lòng trắc ẩn… Cả hai phải tìm kiếm và thứ tha vì những gì họ đã làm trong vấn đề hôn nhân dẫn đến sự không chung thủy hoặc vì những hành vi gây tổn thương xảy ra sau khi sự phản bội bị phát hiện.”
4 nguyên tắc chung để củng cố niềm tin trong mối quan hệ gần gũi:
- Chân thật và chính trực: Hãy cố gắng chân thật và minh bạch hơn trong toàn bộ tương tác cá nhân của bạn. Điều này đòi hỏi bạn phải vượt qua khó khăn để thật sự hiểu bản thân và có lẽ là để đối mặt với những phần tính cách mà có thể chẳng dễ chịu gì. Tuy nhiên, hiểu nhiều về bản thân sẽ cho phép bạn từng bước xây dựng nhiều niềm tin hơn vào chính mình và suy nghĩ, cảm xúc và giá trị của mình. Sống với tính chính trực, tuân theo các giá trị và nguyên tắc của mình cũng giúp bạn trở thành một người đáng tin.
- Không “xù lông nhím”: Hãy học cách ít xù lông nhím hơn trong giao tiếp với nửa kia: Không xù lông nhím tức là có một cái nhìn thực tế về bản thân và nửa kia, đồng thời mở lòng lắng nghe phản hồi. Hãy tìm hiểu phần cốt lõi của sự thật trong mọi phản hồi hoặc lời phê bình bạn nhận được từ đối phương. Bạn có thể nhận ra rằng bạn đang quá nhạy cảm với những vấn đề nhất định, nhưng vẫn chưa mở lòng để thảo luận về các vấn đề khác. Trong một mối quan hệ lâu dài, hai bên sẽ sớm hiểu rằng vấn đề nào là “cấm kị” và ngừng nhắc đến nó trong những cuộc nói chuyện. Tuy nhiên, đây chính xác là hành vi “kiểm duyệt” dẫn đến sự không tin tưởng và căng thẳng trong mối quan hệ.
- Thấu hiểu: Hãy chấp nhận và hiểu rõ những khác biệt giữa bạn và nửa kia thay vì để những khác biệt này trở thành bất đồng thúc đẩy sự không tin tưởng. Mối quan hệ tình cảm chín chắn đòi hỏi sự đánh giá đúng và tôn trọng sự độc đáo của người kia. Điều này có nghĩa là nhìn nhận nửa kia như một cá thể tách biệt với những ý kiến và quan điểm của họ.
- Giao tiếp thẳng thắn: Hãy chú ý hơn đến sự không nhất quán giữa lời nói và hành động của bạn. Kiểu tự nhận thức này cho phép những người đang yêu hình thành nhiều niềm tin hơn về nhau. Nhằm củng cố sự tin tưởng lẫn nhau này, các cặp đôi cũng cần phải học cách thể hiện sự khao khát và mong muốn của họ một cách thẳng thắn hơn. Khi mọi người thẳng thắn yêu cầu những gì mình muốn trong một mối quan hệ thân mật, họ cảm thấy nhạy cảm và cởi mở hơn đối với việc yêu và được yêu.
Khi khám phá những ý nghĩa khác nhau của lòng tin, quan trọng là bạn phải phân biệt giữa niềm tin vô điều kiện (quá ngây thơ) và niềm tin có điều kiện dựa trên sự đánh giá và trải nghiệm trong quá khứ. Phân biệt giữa việc hoài nghi lành mạnh (vốn thể hiện sự trưởng thành) và việc chỉ trích cay độc (thể hiện sự thiếu chín chắn và thích nghi kém) cũng rất quan trọng. Khi tiếng nói chỉ trích nội tâm chiếm ưu thế trong tư duy của mình, ta có khuynh hướng trở nên khắc nghiệt và xem thường người khác. Những thái độ tiêu cực này hủy hoại tinh thần của con người; nó gây tổn thương cho ta cũng như cho những người thân yêu của ta. Thái độ hoài nghi lành mạnh là một phần của cái tôi chân thật, trong khi chỉ trích cay độc lại chống lại cái tôi, là phần tính cách gây hại cho lòng tự trọng và cản trở các mối quan hệ của ta.
Tóm lại, lòng tin là cực kì quan trọng; nó giúp giữ gìn tình yêu, tình cảm và sự dịu dàng mà những người đang yêu dành cho nhau trong những giai đoạn đầu của mối quan hệ. Cảm giác tin tưởng lẫn nhau này giúp họ vượt qua những thăng trầm không thể tránh khỏi trong những năm tiếp theo.
Tác giả: Joyce Catlett
Nguồn dịch: UBrand.cool